Không thể phủ nhận rằng bản chất của hoạt động quảng cáo là khiến khách hàng mua sản phẩm cao hơn so với giá trị thật.
Quảng cáo không hiệu quả hay có hiệu quả thường được cân nhắc, đánh giá thông qua những con số thống kê một cách có chủ đích – nghĩa là chỉ nhắm đến các cơ sở hay tiêu chuẩn mà người làm quảng cáo, người xây dựng chiến lược tiếp thị và ban lãnh đạo doanh nghiệp thật sự quan tâm. Chẳng hạn như thời lượng quảng cáo, thời gian tiếp cận người xem mục tiêu, số lượng người xem trong cùng một thời điểm,…
Chúng ta thường gọi đó là những con số hay công cụ đo lường hiệu quả quảng cáo, nhưng quảng cáo có thật sự hiệu quả hay không thì chẳng ai dám khẳng định. Không phải tất cả người xem quảng cáo đều tiếp tục xem cho đến giây cuối cùng, không phải ai xem đến giây cuối cùng cũng thấy ấn tượng với nội dung quảng cáo. Chặng đường từ lúc người xem thấy ấn tượng, bị thuyết phục bởi quảng cáo cho đến khi thật sự mua hàng, trở thành khách hàng của thương hiệu lại còn xa vời hơn.
Nội dung quảng cáo hiện đại thể hiện bằng nhiều cách khác nhau (ảnh: X).
Đó là đối với các chiến dịch quảng cáo truyền hình, còn trên các phương tiện truyền thông khác thì sao? Từ các phương thức truyền thống như bảng quảng cáo, phát tờ rơi, phát thanh radio cho đến các nền tảng kỹ thuật số như quảng cáo mạng xã hội, quảng cáo GDN hay quảng cáo SEM. Tất cả đều là những giải pháp không làm ảnh hưởng đến trải nghiệm và nhu cầu ngắn hạn của khách hàng mục tiêu.
Ví dụ khi người đi xe máy được một bạn phát tờ rơi tiếp cận, người này chỉ đơn giản là từ chối nhận – hoặc nhận rồi mang vứt vào thùng rác một cách lịch sự là xong. Khi người dùng mạng xã hội nhìn thấy một quảng cáo không phù hợp, người này chỉ đơn giản là bỏ qua – hoặc chu đáo hơn thì bấm báo cáo rằng đây là nội dung không phù hợp với mình. Trong cả hai tình huống, người đi xe máy vẫn cứ tiếp tục hành trình của họ, người dùng mạng xã hội thì tiếp tục “lướt Face, lướt Tiktok” như chưa từng xảy ra chuyện gì.
Đó chỉ là một trong nhiều nguyên nhân khách quan khiến quảng cáo không hiệu quả, bên cạnh một số (phần lớn) những nguyên nhân chủ quan khác. Vậy đâu là những nguyên nhân lớn nhất khiến chiến dịch quảng cáo trở nên thiếu hiệu quả, đội ngũ thương hiệu và ban lãnh đạo doanh nghiệp nên làm gì khi quảng cáo không hiệu quả, hai câu hỏi trên sẽ được Vũ phân tích rồi giải đáp trong khuôn khổ bài viết lần này.
Chi nhiều tiền nhưng vì sao quảng cáo không hiệu quả?
Một trong những quan điểm thường gặp ở nhà đầu tư, các đội ngũ thương hiệu và kể cả người làm quảng cáo chuyên nghiệp đó là: càng chi nhiều tiền thì hiệu quả quảng cáo càng lớn. Nhưng hãy nhớ lại câu nói nổi tiếng của David Ogilvy – nhà sáng lập agency hàng đầu thế giới Ogilvy và được mệnh danh là cha đẻ của ngành quảng cáo: “Điều thật sự thu hút người xem chọn mua sản phẩm của bạn là nội dung quảng cáo, chứ không phải hình thức của nó.”
Như vậy là khác với những tiêu chuẩn thường gặp của quảng cáo trong nước, như muốn quảng cáo hiệu quả thì hình ảnh phải bắt mắt, giai điệu bắt tai, diễn viên có ngoại hình hoặc được nhiều người biết đến,… tiêu chuẩn quảng cáo truyền hình nói riêng và quảng cáo trên thế giới nói chung có những đặc tính tương đối trái ngược. Nói một cách khách quan hơn, quảng cáo trong nước đang cố đi ngược lại những tiêu chuẩn căn bản của thế giới.
Muốn quảng cáo có hiệu quả và mang lại hiệu ứng tích cực cho đội ngũ thương hiệu, thì bản thân quảng cáo đó phải là một sản phẩm hiệu quả trước tiên. Nghĩa là không vòng vo tam quốc, không làm nổi bật các giá trị bề ngoài và mang tính phù phiếm, ngược lại cần đi thẳng vào nội dung hay thông điệp cần truyền tải – có thể kết hợp với tính hài hước, ngoại hình hoặc hành động không thể lường trước của nhân vật để thu hút sự chú ý.
Một thị trường đang làm rất tốt trong việc lên ý tưởng và kịch bản quảng cáo, lại còn ở rất gần nước ta đó chính là Thái Lan. Người làm quảng cáo của Xứ Chùa Vàng luôn tạo ra những ý tưởng đơn giản, gần gũi nhưng độc đáo và hiếm ai nghĩ đến. Ý tưởng và kịch bản của quảng cáo Thái Lan có thể rất hư cấu, vô thực nhưng lại đánh trúng vào những đòi hỏi cơ bản của lĩnh vực này: dễ hiểu, dễ nhớ và có đủ ấn tượng về sản phẩm.
David Ogilvy đánh giá cao nội dung quảng cáo hơn hình thức quảng cáo (ảnh: Effectiviology).
Ví dụ như TVC quảng cáo thuốc xịt côn trùng của hãng C. từng rất viral trên mạng xã hội. Hai vợ chồng dùng thuốc xịt vào “chú gián khổng lồ” được nhân hoá với lối diễn tự nhiên, hài hước của một nam diễn viên có ngoại hình không hề nổi bật. Chú gián không chết ngay mà còn đủ sức quay lại troll hai vợ chồng bằng câu nói: “Giờ tôi phải về nói với lũ gián rằng thuốc xịt C. là đồ rởm.”
Nhưng sau khi về nhà và đoàn tụ với gia đình, lần lượt từng chú gián ngã lăn ra, sùi bọt mép rồi ra đi không lời từ biệt. Ý tưởng của TVC quảng cáo này rất đơn giản: thuốc xịt C. không làm côn trùng chết ngay lập tức, mà mang lại hiệu quả bền vững đến mức “chỉ cần chạm là chết.” Côn trùng vì thế bị giết sạch tận gốc, thậm chí không mang đến nhiều tác dụng phụ cho bản thân người sử dụng.
Nhìn lại ý tưởng và kịch bản quảng cáo của nhiều đội ngũ tiếp thị trong nước, chúng ta đang tập trung quá nhiều vào các yếu tố bề ngoài, phù phiếm hay thậm chí không có tác dụng củng cố giá trị nội dung. Khi đó, đọng lại trong nhận thức và tâm trí người xem sẽ không phải những giá trị bền vững. Ví dụ như fan của ca sĩ A mới thích xem quảng cáo có sự xuất hiện của ca sĩ A, những người khác thì không. Ai có thiện cảm đặc biệt với trí tuệ nhân tạo mới thích xem quảng cáo được làm bởi AI, những người khác thì không.
Quảng cáo có đầu tư về nội dung thì không cần quá quan tâm đến diễn viên là ai, tình huống xảy ra như thế nào và được hoàn thiện bằng những công cụ gì (quảng cáo truyền hình ở thị trường Thái Lan là một minh chứng). Nội dung quảng cáo cũng giống như tiền, nội dung không phải là tất cả của một chiến dịch quảng cáo, nhưng không có nội dung hay thì con đường chinh phục nhận thức, niềm tin của khách hàng mục tiêu sẽ vất vả hơn nhiều.
Nội dung quảng cáo của người Thái luôn được đầu tư cẩn thận (ảnh: Kool Media).
Nội dung quảng cáo khác với tiền ở chỗ: chi nhiều tiền chưa chắc quảng cáo có hiệu quả, nhưng đầu tư nhiều vào chiều sâu nội dung thì hiệu quả quảng cáo đã nằm chắc trong tay. Thậm chí những yếu tố bề ngoài như chất lượng diễn viên, chất lượng bối cảnh hay thiết bị sản xuất có thể “bớt quan trọng” đi một chút. Bởi sau cùng quảng cáo cũng giống như chính sản phẩm – chỉ bán chạy khi cho thấy giá trị thực tế mà bản thân vốn có.
Vũ từng có lần chia sẻ về sự thất vọng, khó chịu của mình khi bắt gặp các biển quảng cáo kích thước lớn, chiếu đèn sáng bừng đến mức loá mắt xuất hiện nhan nhản ở trên đường. Chúng không chỉ gây khó chịu cho mọi người về mặt trải nghiệm, mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng lưu thông trên đường phố – có thể đẩy những người đang tham gia giao thông vào tình huống nguy hiểm. Dưới góc nhìn của bản thân, đây là kiểu quảng cáo không những không giải quyết được một vấn đề cụ thể, trái lại còn tạo ra nhiều vấn đề mới.
Bên cạnh việc tập trung quá nhiều vào các yếu tố bề ngoài, mang tính phù phiếm và không giải quyết được vấn đề nào cụ thể, quảng cáo không có chiều sâu nội dung còn gây ức chế cho cảm xúc người xem vì những tình tiết vô lý, không phù hợp với thuần phong mỹ tục hay thực tế đời sống thường ngày. Trong phần kế tiếp của bài viết, chúng ta sẽ tìm hiểu về 3 lỗi nội dung thường gặp khi xây dựng chiến dịch, chương trình quảng cáo nói chung.
Nội dung quảng cáo vô lý, không phù hợp với thực tế
Từ giai đoạn thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước, nội dung quảng cáo truyền hình đã có thời lượng dài lên đến 1 phút – thậm chí còn lâu hơn thế nếu là đối với thương hiệu lớn, đầu tư xây dựng câu chuyện và nhân vật đại diện (mascot) mang tính biểu tượng. Một trong những nhân vật quảng cáo huyền thoại trong thời kỳ này phải kể đến Chú hề Ronald của McDonald’s – người luôn dành tình cảm to lớn cho những chiếc burger Big Mac.
Chú hề Ronald trong nội dung quảng cáo của McDonald’s (ảnh: The Daily Meal).
Theo thời gian, dưới áp lực của việc nhiều thương hiệu nổi lên như nấm mọc sau mưa – cộng với chi phí tính trên từng giây từng phút hiển thị quảng cáo tăng lên chóng mặt, thời lượng quảng cáo truyền hình nói riêng đã quay về cột mốc tiêu chuẩn là tối đa 30 giây. Chi phí cao, thời lượng hiển thị ngắn khiến cho nhiều nội dung và kịch bản quảng cáo không còn giữ được chiều sâu cần thiết. Hầu hết nội dung quảng cáo hiện đại đang tập trung vào vấn đề – thay vì câu chuyện tạo ra sản phẩm.
Một số kịch bản quảng cáo tương đối sáo rỗng về mặt nội dung, ý nghĩa và không đáp ứng được những kỳ vọng căn bản nhất từ phía người xem. Điển hình như kịch bản quảng cáo chứa nhiều tình tiết vô lý, xa rời thực tế hoặc bản thân người xem sẽ không làm như vậy (nếu đứng ở vị trí của nhân vật tham gia quảng cáo).
Ví dụ: người mẹ không chỉ con cách làm sạch dầu mỡ trên bát đĩa bằng nước ấm, chanh tươi mà ngay lập tức đề cập đến sản phẩm nước rửa chén. Hoặc chàng trai trẻ đặt máy giặt ngay trong phòng khách (điều bình thường chẳng ai làm) rồi cảm thấy khó chịu, ồn ào đến mức “chọn mua máy giặt mới có tính năng giặt êm, chống ồn.”
Nội dung quảng cáo phản cảm, mang tính công kích
Đây là lỗi nội dung thường gặp trên nhiều nền tảng và giải pháp quảng cáo khác nhau, quảng cáo truyền hình chỉ là một trong số đó. Chúng ta dễ dàng bắt gặp tình trạng này ở các thương hiệu châu Á – nơi mà con người sống thiên hướng và dễ bị chi phối bởi cảm xúc, nhìn nhận vấn đề từ ngoài vào trong chứ hiếm khi đánh giá một sự việc, hiện tượng ở dạng bản chất của nó.
Nhiều nội dung quảng cáo có tình tiết vô lý (ảnh: Haier India).
Lấy ví dụ một thương hiệu mì tôm Việt Nam xuất hiện vào đầu những năm 2010, thương hiệu này phát động chiến dịch quảng cáo tuyên bố “nhiều sản phẩm khác trên thị trường có chứa hàm lượng transfat vượt ngưỡng – đây là chất béo xấu bị WHO khuyến nghị hạn chế sử dụng, đặc biệt với bệnh nhân tim mạch và có vấn đề về huyết áp.” Tuy nhiên, điều đáng nói là ngay sau đó thương hiệu này cũng bị phát hiện có sử dụng transfat – với một hàm lượng quá mức cho phép trong các sản phẩm của mình.
Hoặc trường hợp khác của một thương hiệu điện thoại không còn xa lạ với người Việt Nam. Thương hiệu đến từ Hàn Quốc thường xuyên theo dõi, cập nhật và lên tiếng công kích mỗi khi Apple – một thương hiệu cạnh tranh đến từ Mỹ giới thiệu sản phẩm mới. Họ từng chỉ trích iPhone về việc bỏ đi jack cắm tai nghe 3.5mm, sử dụng màn hình tai thỏ và không còn tặng kèm cục sạc bên trong hộp đựng. Thế nhưng không lâu sau đó, bản thân thương hiệu này và thậm chí cả “thế giới Android” cũng phải chạy theo những tiêu chuẩn Apple đặt ra.
Tất nhiên đây đều là những kế hoạch và định hướng quảng cáo không hiệu quả, tập trung quá nhiều vào đặc điểm hay động thái của thương hiệu cạnh tranh – không trung thành và ưu tiên truyền thông các giá trị thế mạnh của thương hiệu mình. Thói quen này khiến chiến dịch quảng cáo trở nên phản cảm, chạm đến cảm xúc người xem một cách tiêu cực, thậm chí để lộ tâm lý dè chừng hay “cảm giác thua kém” của chính đội ngũ thương hiệu.
Nội dung quảng cáo phản tác dụng, khiến người xem thắc mắc
Xét cho cùng: quảng cáo truyền hình nói riêng và quảng cáo nói chung cũng là một bộ môn nghệ thuật, mà đã là nghệ thuật thì nhiệm vụ của người làm quảng cáo là phải nhắn gửi, lồng ghép các thông điệp “ý nghĩa nhưng đời thật” vào trong nội dung của mình. Ý nghĩa nhưng đời thật là như thế nào? Nghĩa là thông điệp nội dung phải có ý nghĩa tích cực, nhân văn nhưng không quá xa rời thực tế cuộc sống. Ý nghĩa của nội dung chỉ là điều kiện đủ, tính thực tế và gần gũi của nội dung mới là điều kiện cần.
Samsung từng xoá bỏ các nội dung quảng cáo nhằm vào Apple (ảnh: FPT).
Khi đề cập đến quảng cáo nói chung: nghĩa là trên nhiều nền tảng khác nhau từ quảng cáo truyền hình, quảng cáo trên không gian mạng cho đến quảng cáo ngoài trời như bảng vẫy, biển hiệu đèn led,… thì nội dung không chỉ là chữ viết, hình ảnh hay thông điệp mà đội ngũ thương hiệu muốn truyền tải – mà còn là hình thức và cách truyền tải nội dung đến khách hàng mục tiêu.
Một số ý tưởng, thông điệp hay cách truyền tải thông điệp dễ tạo ra phản cảm, bị phản tác dụng và khiến khách hàng mục tiêu phân vân – không biết mình có nên ủng hộ rồi chọn mua sản phẩm của thương hiệu này hay không? Chẳng hạn như một sản phẩm mì gà sợi phở đang được quảng cáo trong thời gian qua, lấy ý tưởng người chồng “chán cơm thèm phở” nên người vợ đưa đến quán, ăn thử món mì sợi phở mới của thương hiệu nọ. Trên thực tế, câu chuyện “thèm phở” vô cùng nhạy cảm và dễ bị phản tác dụng nếu biến thành ý tưởng truyền thông.
Hay như câu chuyện mà Vũ đã đề cập ở phía trên, về những biển hiệu quảng cáo ngoài trời chúng ta thường bắt gặp trên phố. Khoan bàn về nội dung quảng cáo hay thiết kế biển hiệu, riêng việc chúng lắp kèm đèn led siêu sáng cũng đủ khiến người nhìn cảm thấy khó chịu. Có thể mục đích của người thi công biển hiệu là khiến mọi người chú ý đến nội dung quảng cáo. Nhưng đèn sáng đến mức chói mắt thì lại phản tác dụng, khi ta chỉ muốn phớt lờ, chạy qua thật nhanh thay vì tập trung vào nội dung hay thông điệp mà quảng cáo truyền tải.
Theo một khảo sát của PwC tại thị trường Việt Nam, có đến 96% người tiêu dùng cho biết mình sẵn sàng chi nhiều tiền hơn – để sở hữu sản phẩm đến từ các thương hiệu có đạo đức kinh doanh. Như vậy với cách làm nội dung quảng cáo theo kiểu nhạy cảm, phản tác dụng như hai câu chuyện vừa kể, người tiêu dùng có quyền đặt nghi vấn về đạo đức kinh doanh của công ty, ban lãnh đạo và cả đội ngũ thương hiệu. Dẫn đến tâm lý dè dặt, ngại ngần trong tiêu dùng và khiến cho quảng cáo không hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ cơ bản nhất là lôi kéo sức mua.
Đạo đức kinh doanh ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng (ảnh: Tuoi Tre News).
Mối quan hệ của quảng cáo và chất lượng sản phẩm
Không phải ai thông minh thì cũng hài hước, nhưng người hài hước thì chắc chắn là thông minh. Tương tự như vậy, không phải sản phẩm nào có chất lượng kém cũng quảng cáo liên tục, nhưng sản phẩm nào quảng cáo liên tục thì chắc chắn là chất lượng có vấn đề. Dĩ nhiên là thương hiệu nào cũng làm quảng cáo – từ thương hiệu khởi nghiệp, sinh sau đẻ muộn cho đến những tên tuổi đang dẫn đầu thị trường. Nhưng tần suất xây dựng và lan toả nội dung quảng cáo cũng là một câu chuyện đáng bàn.
Trừ trường hợp các thương hiệu lớn muốn “đi bước nữa” trong quá trình thâm nhập sâu hơn, trở thành tên tuổi có vị thế vững vàng trong một thị trường hay quốc gia cụ thể – giống Apple với thị trường Việt Nam trong thời điểm hiện tại, các trường hợp thương hiệu và sản phẩm được quảng cáo với tần suất cao đều sẽ bị đặt dấu chấm hỏi. Câu hỏi dễ bắt gặp nhất từ phía người tiêu dùng đó là: “Nếu sản phẩm có chất lượng cao, đạt doanh số tốt thì việc gì phải quảng cáo liên tục?”
Quay trở lại quan điểm của Vũ ở phần đầu bài viết: bản chất của hoạt động quảng cáo là khiến khách hàng mua sản phẩm giá cao hơn so với giá trị thật. Thực tế là những người làm nội dung quảng cáo, ban lãnh đạo doanh nghiệp hay đội ngũ thương hiệu không hề chi tiền cho các hoạt động quảng cáo. Trái lại, chính người xem, người nghe và người tiêu thụ nội dung quảng cáo mới đồng thời là những người chi trả cho các hoạt động này.
Chúng ta vẫn thường nghe thấy những lời nhận định cho rằng: “khách hàng mua xe của hãng A, điện thoại của hãng B hay đồng hồ của hãng C thì phải chi nhiều tiền hơn để mua logo của các thương hiệu này.” Vậy thì “mua logo” có nghĩa là sao? Đó chính là phạm trù ẩn ý việc khách hàng phải chi tiền cho các hoạt động quảng cáo của đội ngũ thương hiệu.
Nội dung quảng cáo quan trọng hơn cách truyền tải nội dung (ảnh: TVA Media).
Kevin Hirschberg – nhà sáng tạo nội dung ở lĩnh vực công nghệ từng chứng minh là: một chiếc iPhone 15 Pro Max chỉ tốn khoảng 558 đô la để có thể xuất xưởng, nhưng Apple lại công bố mức bán lẻ 1.199 đô la cho mỗi sản phẩm. Nếu bạn cho rằng Apple thật giỏi trong việc hút máu khách hàng thì khoan đã, Kevin cũng chứng minh một chiếc Galaxy S24 Ultra chỉ tốn khoảng 525 đô la để sản xuất hoàn thiện, nhưng Samsung lại công bố mức bán lẻ tận 1.299 đô la cho sản phẩm này – nghĩa là biên lợi nhuận cao hơn nhiều so với chính Apple.
Đây là chuyện không hiếm gặp trong thế giới thương hiệu và thụ hưởng hàng hoá, không chỉ riêng smartphone mà ở bất cứ lĩnh vực, ngành nghề hay dòng sản phẩm nào cũng như vậy. Doanh thu của hoạt động bán lẻ và bán buôn không chỉ “quay đầu” để chảy vào túi nhà sản xuất, mà còn phải chi trả cho hoạt động nghiên cứu công nghệ, thăm dò thị trường, chiết khấu cho đối tác và phần còn lại để đầu tư cho hoạt động tiếp thị quảng cáo.
Điểm khác biệt giữa các thương hiệu lớn so với phần còn lại của thị trường, đó là đội ngũ thương hiệu có nhận thức đúng đắn về việc sử dụng “đồng tiền của khách hàng” một cách hiệu quả – tất nhiên là sau khi trừ đi chi phí sản xuất, hoàn thiện sản phẩm. Cụ thể thì họ dành ra phần lớn số dư này cho mục đích nghiên cứu, cải thiện công nghệ trong tương lai. Điển hình như thói quen và truyền thống của các thương hiệu Mỹ, khi giá bán lẻ sản phẩm của họ thường giảm dần theo thời gian.
Lấy ví dụ máy tính Mac ở giai đoạn đầu thâm nhập thị trường (tức những năm 80 của thế kỷ trước) có giá bán lẻ hơn 2.490 đô la – tương đương khoảng 6.000 đô la ở thời điểm hiện tại, không có quà tặng và cũng không bao gồm thiết bị phím chuột. Nhưng vào năm 2024 khi truy cập trang web chính thức của Apple, giá bán lẻ của máy tính Mac chỉ còn là 1.299 đô la – thậm chí được tặng kèm tai nghe AirPods nếu mua trùng với dịp Back To School (chương trình khuyến mãi thường niên của Apple vào khoảng tháng 9, tháng 10 hằng năm).
Nội dung quảng cáo và giá trị thật của sản phẩm (ảnh: TikTok).
Đây chắc chắn không phải là kết quả mang tính nhất thời, mà là thành quả sau nhiều năm tận dụng đúng đắn, hiệu quả mức chênh lệch giữa giá bán lẻ so với giá trị thật của sản phẩm. Thay vì bỏ túi riêng để nhanh chóng làm giàu cho bản thân, những người đứng đầu thương hiệu lớn có xu hướng tái đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ sản phẩm nhiều hơn. Bởi phát triển công nghệ sản phẩm là nền tảng để “bình dân hoá” chính sản phẩm đó, mang tiện ích, công nghệ và bản thân sản phẩm đến gần với đời sống xã hội nói chung.
Điều tương tự thường không xảy ra ở thị trường Việt Nam – nơi phần lớn doanh nghiệp, nhà lãnh đạo và đội ngũ thương hiệu có xu hướng chạy theo mục tiêu tăng trưởng nhiều hơn. Trái với mục tiêu thay đổi thế giới của các thương hiệu toàn cầu, đội ngũ thương hiệu Việt thường tập trung cho mục tiêu thay đổi đời sống và chất lượng cuộc sống của bản thân. Dẫn đến thực trạng lạm dụng, ỷ lại vào kết quả sau của các hoạt động tiếp thị quảng cáo. Bỏ quên nhiệm vụ trọng tâm là nghiên cứu, phát triển công nghệ sản phẩm như nhiều thương hiệu lớn đang làm.
“Hành động tạo ra thói quen, thói quen tạo ra tính cách, còn tính cách thì dẫn đến số phận.” Câu nói này hoàn toàn thích hợp để mô tả vấn đề, thực trạng chung mà nhiều thương hiệu trong nước đang gặp phải – muốn phấn đấu trở thành thương hiệu lớn, thương hiệu toàn cầu nhưng không theo đuổi những suy nghĩ, hành động và thói quen của những thương hiệu toàn cầu tương xứng.
Khi chúng ta không đặt mục tiêu cho một hành động hay thói quen nào đó, thì không bao giờ thành công tìm đến – vì rõ ràng là nhiều người đã đặt mục tiêu, đã thật sự hành động để theo đuổi mục tiêu đó nhưng vẫn thất bại, thì không lí nào người chưa đặt mục tiêu lại có thể thành công.
Giá bán lẻ của iMac ngày càng dễ tiếp cận hơn (ảnh: Apple).
Khi bạn không đặt mục tiêu cải thiện chất lượng nội dung và hiệu quả quảng cáo, mà chỉ xem quảng cáo như một công cụ gia tăng doanh số hay lợi nhuận đơn thuần, thì chắc chắn quảng cáo không hiệu quả và thậm chí không đảm bảo mục tiêu kinh doanh – bởi tác động tiêu cực đến suy nghĩ cũng như thói quen tiêu dùng của khách hàng như Vũ vừa mới chia sẻ.
Xin chân thành cảm ơn,